Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

YẾU TỐ RỪNG TRONG VĂN HÓA RAGLAI-- Phân Cuối

 YẾU TỐ RỪNG TRONG VĂN HÓA RAGLAI

Khi nơi cư trú của người Raglai xuất hiện tộc người khác đến ở, họ luôn cảm thấy bất an vì sợ những người này xâm hại đến núi rừng mà người phải gánh chịu hậu quả lại chính là họ. Đây cũng chính là điều giải thích (của chúng tôi) hiện tượng bỏ đi dần vào trong rừng, trên rẫy của người Raglai khi người Việt hay tộc người khác đến chung sống. Về vấn đề này, chúng tôi đã trao đổi với GS Ngô Đức Thịnh , giáo sư cho rằng đây là hiện tượng xung đột văn hoá giữa các tộc người.
Khi cây rừng ra hoa, đó là lúc người Raglai nhận biết được một năm mới đã bắt đầu. Cùng với hoa cây rừng là những công việc sản xuất theo chu kỳ trong một năm với nương rẫy, Từ những công việc đó người Raglai đặt tên tháng trong một năm:
Tháng Một: Hoa cây
Tháng Hai: Sấm la=tiếng sấm báo hiệu những cơn mưa đầu mùa (grưm manhĩ)
Tháng Ba: Đốt rẫy
Tháng Tư: Trỉa lúa
Tháng Năm: padai  lacơi (lúa con trai=Lá lúa bắt đầu có vòng cườm)
Tháng Sáu: Tìat cumơi (lúa thì con gái=Đẻ nhánh)
Tháng Bảy: Trổ bông
Tháng Tám: ăn cơm mới
Tháng Chín: Suốt rẫy
Tháng Mười: Kakìq (thu hoạch xong)
Tháng Mười một: Puihmàc (nắng hanh, tháng tết)
Tháng Mười hai: Wup wơr (tháng lãng quên, tháng lễ hội).
Bên cạnh việc rừng cung cấp cho họ cây cối làm nhà ở, trong tri thức dân gian của người Raglai còn biết tận dụng những loại cây, con trong rừng để chữa bệnh như :
- Chữa đau bụng, ho: Củ (rễ) sa nhân;
-Cầm máu: cây họ sắn dây, cây xương gà;
-Chữa bong gân, đứt gân, các vết thương: cây Jrãu Varavup (đực), jrãu uraq (cái);
-Chữa đau răng: các loại cây có chất liệu cay rilùc, cây ri-ieng, cây dây teh... dùng để nhét vào chân răng khi nhức;
-Chữa đau bụng: Cây Tô Hạp (Turùp), trầm hương (Gahlơu);
-Tổ ong nhựa xông hơi chữa bệnh đậu mùa;
-Mật ong để rà miệng chữa bệnh cho trẻ em, mật gấu để chữa bệnh đau mắt…
Để tận dụng các loại thức ăn có sẵn trong rừng, kinh nghiệm của người Raglai đã truyền lại cho con cháu nhận biết các loại hoa quả nào có thể ăn được, loại rau nào mọc trong rừng có thể làm thức ăn hàng ngày, củ loại cây gì có thể giúp họ qua cơn đói trong mùa giáp hạt… Sau mỗi mùa mưa các loại nấm mọc trong rừng có nhiều cây dầu (thông, pơmu) màu trắng sữa thì hái chứ màu đỏ tuyệt đối không đụng vào; nấm mọc ở rừng cây le, cây lồ ô nếu có màu tím là độc, nấm màu vàng ăn rất ngon và bổ; các loại nấm mọc trên đất tổ con mối hầu hết đều ăn được; nấm mọc trên các thân cây mục có thân mềm, dòn thì hái, nấm cứng thì đừng…
Vào một ngôi nhà của người Raglai, có thể khẳng định toàn bộ các đồ dùng của họ đều có nguồn gốc từ rừng, hoặc qua các cuộc trao đổi từ lâm thổ sản .
Người Raglai chăn nuôi các loại gia súc: heo, trâu , bò, dê; các loại gia cầm: gà, vịt… đều thả rong vào rừng chứ không làm chuồng trại. Trong akhàt Jucar Raglai đã kể về sự việc chuẩn bị cho một đám cưới . Người chủ làng phân công bọn thanh niên trai gái trong làng gái măng, hái rau rừng để về nấu các món ăn truyền thống:
“-Hãy đi lấy canh rau mang về cho non thôi đấy,
Này đây hãy đi lấy măng rừng hái về chỉ lấy búp tre non thôi,
Hãy bắt con heo to cỡ bước nhảy qua, bắt con heo to cỡ chừng năm người khiêng mới vừa chừng này là được.
Với con trâu có sừng khoảng một chẻ tre là được, cái sừng dài tới cổ trâu này đây .
Có như vậy mới cho đút miệng ăn cho đủ hàng em người ta,
Như thế mới đủ cho việc đút miệng ăn hàng người chị,
Ăn này đây cho đủ khắp hết nhau,
Ăn này đây cho đủ khắp cả mọi người…”
                    (Akhàt Jucar Raglai: AWƠI NÃI TILƠR)
Cây cau non, cây đa nhỏ trên rừng còn là hình ảnh của các chàng trai cô gái Raglai trong các câu dân ca khi họ đối đáp, tìm hiểu nhau khi mới gặp gỡ buổi đầu
“ Ơ… Cây cau, hỡi cây cau,
Ơi… Hỡi cây cau, cây cau ơi!
Hãy nói lời thơm như trầm hương!
                 (Điệu Rutu: Lý Hái cau rừng)
Hay trong làn điệu Alơu:
“…Tụi tui là cây đa còn nhỏ,
Tụi tui là cây sung , Cây sung nhỏ nhắn .
Là cái khay trầu nhỏ ,
Để chuẩn bị cho các cuộc lễ quanh năm, người Raglai đã có một loại thức uống truyền thống như hầu hết các tộc người Tây Nguyên: Rượu cần. Rượu cần được làm bằng các loại khoai mì, bắp, sắn, bobo (cao lương) trong trên nương trên rẫy trộn với men danruq dawai lấy trong rừng, ngày nay họ sử dụng các loại men rượu bán ở chợ cho tiện và nhanh. Tuy vậy, trong những cuộc lễ lớn gia đình họ vẫn thường  làm rượu cần từ men này, người Raglai thường nhắc nhau trong pacap :
“Chưq char lagar drơi ngãq chapaq voh tupơi
Mũ danruq dawai tacai pateh tacai hureq lacuah ugha catơr amreq...”
(Núi nguyên xứ sở của ta có đủ đồ làm men rượu,
Bằng cây thuốc daruq dawai củ gừng bo bo ớt...)
Trong các Akhàt Jucar Raglai cũng nhắc đến loại men này:
“… Awơi Via Valìq nói:
-Rượu cần này người ta chẻ măng làm chua của măng tre ngà đó thôi.
Nào có khác lòng nhau đâu,
Này đây men làm bằng củ danruq chứ có khác gì.
Cũng là củ danrưq , Này dùng củ thuốc Jawai có khác gì nhau
                    (Akhàt Jucar AWƠI NÃI TILƠR)
Rừng  núi bạt ngàn nhưng đối với người Raglai ở Khánh Hòa đều đã có chủ để giữ gìn, để canh tác. Mặc dù không hề có một văn bản chữ viết nào quy định nhưng khi thành lập một palơi người Raglai ở Khánh Hòa lấy  3 ngọn núi trong địa bàn của palơi “phân công” cho 3 dòng họ chính phụ trách: Họ Mấu/Máu (Chamaliaq), dòng họ Bo Bo (Catơr) và Cao/Cau (Pinang). Mỗi dòng họ thực hiện việc cúng lễ rừng/núi hàng năm. Việc cúng núi diễn ra bắt đầu vào tháng Grưm manhĩ (sấm la), tức là lúc phát dọn chuẩn bị gieo trồng vụ mới hay còn gọi là mùa rìu mùa rựa. Trong dòng họ đóng góp lễ vật cau trầu, gà, rượu cần để cúng núi của mình. Cứ 3 năm lại cúng lớn một lần, và chu kỳ 7 năm lại cúng lớn nhất. Lễ vật  trong các kỳ cúng lớn này là heo, bò. Sau khi cúng núi xong họ tiếp tục cúng đất (vhum tanãh). Lễ vật cúng núi như thế nào thì cúng đất đai như vậy. Trường hợp nếu trong dòng họ có người vi phạm luật tục cần phải cúng tạ núi rừng thì dòng họ nào về núi đó. Đây là điều bắt buộc nếu không tai họa sẽ liên quan đến vận mệnh cả làng. Riêng đối với họ Tro, họ Môn… do không có núi riêng trong palơi thì căn cứ mối quan hệ đối với dòng họ nào trong palơi thì cúng ở núi dòng họ mình liên quan.
Trong văn hoá sùng bái với rừng núi, người Raglai không bao giờ lên đỉnh núi mà họ chỉ ở và canh tác giữa lưng chừng núi. Rừng được phân loại theo để mọi người trong palơi biết mà thực hiện theo adãt panuãiq (luật tục), bao gồm:
    Rừng núi trên đỉnh là rừng thiêng, rừng cấm tuyệt đối: Cuang Pu Via;
    Rừng núi Sanõh là rừng của riêng từng gia đình;
    Rừng thần độc (Vhòq Salah)
    Rừng để chôn những người chết vì dịch bệnh  (Dlai huang adhang adhaq, dlai luiq);
    Rừng /núi để canh tác: Duh Puq chưq.
Trong thành ngữ, tục ngữ (pacap) của người Raglai có nhiều câu nói về việc phân loại rừng để truyền lại cho người sau nhớ mà ứng dụng:
-Dlai jalưc catưc bùr (Rừng ngàn rậm rạp)
-Dlai tuha inã mum (Rừng già lắm bồ hóng)
-Chưq jiơc padai dlai jiơc gilo (Núi sanh lúa rừng sanh bắp)
Người Raglai luôn dạy bảo con cháu không bao giờ phá rừng làm rẫy, nếu phá rừng là vi phạm điều cấm kị. Luật tục Raglai đã quy định:
“…Không được làm nhà ở, Không được phát nương làm rẫy bừa bãi.
Người xưa tin rằng:
Đỉnh núi, đỉnh đồi, rừng đầu nguồn, rừng còn nguyên
Là nơi trú ngụ của thần linh
Chặt phát rừng là xúc phạm đến thần linh
Sẽ bị các thần gây ra sạt núi, lũ lụt…”
[Phan Đăng Nhật (cb) 2003:754]
Luật tục của người Raglai cũng đã quy định để đối phó với sự tức giận của nhang thần rừng núi, để cầu mong sự yên bình, con người phải:
“…Hãy têm trầu cau
Hãy cầu xin với Thần Rừng, Thần Núi
Xin cho chim, cho heo, cho gà
Xin cho lúa nhiều, nhiều bắp
Xin cho mọi sự đầy đủ
Chiêng đánh, vòng đeo, nhiều ơn nhiều lộc…”
Cho đến nay một bộ phận người Việt vẫn cho rằng những dân tộc Tây Nguyên chặt phá rừng làm nương rẫy là bản năng của họ. Điều này hoàn tòan trái ngược với truyền thống của người Raglai nói riêng và hầu hết những dân tộc ở Tây Nguyên. Văn hoá tận dụng của rừng, người Raglai cho rằng:
“…Rừng là mái nhà thiên nhiên
Rừng che chở ta, bảo vệ ta
Không có rừng lấy đâu ra măng, ra nấm.
Không có rừng lấy đâu ra dây để buộc, tre để đan…”
Và họ luôn xác định:
“…Cây to đầu núi, đỉnh đồi, đầu nguồn là chiếc đập ngăn nước
Không được chặt cây đa lâu năm, dây leo cuốn, cây sung thần
Không được làm rẫy làm nhà
Đầu núi chân làng, núi to bãi hoang…”
Để đối phó với sự bạc màu của đất đai canh tác, rẫy nương của người Raglai đều chia làm 3 loại:
    Rẫy đang canh tác: Apu jahnãh
    Rẫy bỏ đã 3 năm (còn thu hoạch chuối, đu đu, mít…):Apu Casor
    Rẫy bỏ 10 năm (rẫy lâu lâu): Apu panroh
Khi rẫy bắt đầu bạc màu họ quay trở lại rẫy 10 năm để phát dọn và để dưỡng lại độ màu của các rẫy khác chứ không đi phát rẫy trên núi trong rừng. Các đất rẫy này là đất của ông bà để lại chứ không xâm phạm đến rẫy nương của người khác như luật tục đã quy định:
“…Rẫy cũ của ông bà
Rẫy mới của ông bà
Rẫy cũ của ông bà anh- anh ăn
Rẫy mới của ông bà tui-tui ăn…” [Phan Đăng Nhật (cb) 2003:445].
Một điều chúng tôi đã tìm hiểu được trong quá trình khảo sát, điền dã của mình ở các vùng miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh (Khánh Hoà), Bác Ái (Ninh Thuận) là người Raglai trước đây không bao giờ chặt cây trong rừng già, rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn nước để làm nhà. Họ sử dụng chính ngay những cây cối lấy trong rẫy 10 năm (Apu panroh) mang về làm nhà và các vật dụng khác.
Để đối phó với nạn cháy rừng, người Raglai luôn dạy bảo con cháu luôn phải cẩn thận với việc sử dụng lửa trong rừng. Khi đốt rẫy để canh tác, họ luôn đốt vào lúc đứng gió hay khi gió nhẹ, đốt xong dập hết lửa mới ra về. Nếu ai vi phạm gây ra cháy rừng sẽ bị phạt theo luật tục:
“…Ông bà tổ tiên người Raglai xưa đã dạy
Cấm không được làm cháy nơi thờ thần Rừng, thần Núi…
…Kẻ đốt lửa làm thần linh bị nóng bị bỏng
Kẻ đó đã xúc phạm tới thần linh
Bởi thế nó đã phạm một lỗi rất nghiêm trọng
Cần phải đưa ra xét xử
Với hình phạt nặng nề để làm gương cho kẻ khác…”
Có thể nói hình ảnh của núi rừng, các cây con sống trong rừng đọng lại rất lớn và chiếm hầu hết trong pacap của họ về phương thức sản xuất, canh tác; kinh nghiệm thời tiết khi nhìn núi rừng. Không những thế họ cũng đã đưa hình ảnh những bông hoa trong rừng, đám mây trên đỉnh núi trở thành hoa văn ở một số đồ dùng như ná, ống tên, cán dao của người đàn ông khi lên rẫy; trên váy, áo  của phụ nữ Raglai trong các ngày lễ hội palơi...
Những điều nói trên trong văn hoá của người Raglai là hiển nhiên bởi chính khi tương tác với môi trường của rừng núi, người Raglai đã sáng tạo ra văn hoá của chính họ, một môi trường chủ đạo, gắn bó hàng ngày năm nay với tộc người này như bao tộc người Tây Nguyên khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét